Cứ mỗi lần chia tay với nàng Xuân là mỗi lần khúc dạ vấn vương, thương nhớ miên trường. Có ray rứt nào hơn khi pháo hoa rộn ràng vang vọng, để rồi trở nên im vắng trống trải lạ thường, ngàn hoa khoe hương sắc bay về đong ngập lối, để rồi lững lờ vụt đi về miền xa thăm thẳm. Đóa hồng hé nụ, mai vàng chớm nở, cành đào khoe sắc, cảnh đó người đây, người đó tôi đây, cõi đó bờ đây, tất cả quyện lấy không gian, nhập vào lòng người, tô thắm khung trời hội củ, thổn thức cùng xuân trong đêm trường tịch lặng, tâm thức ẩn dấu trên từng bặt ngôn trọn ý.

 

Bước chân trinh nguyên lên đường làm cuộc lữ thứ, em đi lễ chùa đầu năm mai vàng khép nhụy, tà áo em bay đượm cả một trời xuân, e ấp trong tay sen búp dâng lời ước nguyện, mắt lệ mờ hương trầm bay lan tỏa, đấng từ bi thương xót cõi nhân sinh. Mấy độ quan sang, gió mây đành khép lại, quan hà mấy nhịp tiếng vọng đầy vơi, trần gian khung trời cũ năm ấy, xuân mới bây giờ mãi còn lạc bước tìm nhau. Bốn mùa luân chuyển đợi mong, đất trời thi nhau nối nhịp, đến rồi đi, đi rồi đến, có rồi không, không rồi có, cứ thế bám cứng vào nhau không một kẽ hở. Không còn là sự ngẫu nhiên, bất chợt tình cờ, mà trở thành quy luật tự nhiên, hẳn nhiên, không cơ may thương lượng, đổi chác, mặc cả trả giá. Tìm đâu điểm dừng, trong cuộc rong chơi với vô thường lữ thứ?

 

Giữa lúc mọi người hân hoan đón chào nàng xuân khoe sắc, nhà thơ Xuân Diệu phán một câu như sấm nổ bên tai.

 

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua.

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất”.

Cõi lòng tái tê hụt hẫng, không còn dịp cùng nhau thưa hỏi, không một phút giây nào dừng lại, để thở, để cười, để cau có. Dù trông thấy được sự vô thường biến đổi, thi nhau đến đi, thi nhau thay áo, thi nhau khoe sắc, thi nhau tướt đoạt, chưa nở vội tàn, chưa gặp đã phân ly, chưa về đã lỗi nhịp, vẫn là sự đơn điệu nghiệt ngã của thời gian, tâm thức nổi trôi, dòng đời bất định, số phận mong manh lạnh lùng, vô tình khép lại.

 

Trong sự bẽ bàng cô liêu, ngang trái phủ đầy ngập lối, ta vẫn làm kẽ lữ hành cô độc, trong đi về của mọi cuộc lữ, quán trọ thời gian, tâm thức đợi mong, vẫn cứ lững lờ trôi trên dòng sanh diệt. Giấc mơ có đẹp là khi vẫn còn ở trong mơ, một khi bước ra là cả khung trời giá lạnh đang chờ đón, hạnh phúc cho dù có xót xa cũng vẫn là một thứ xa xỉ, về đâu đêm nay khi mưa bay giăng đầy ngập lối, khi dòng đời nghiệt ngã, khi cõi lòng tái tê? Mấy độ xuân sang, mấy mùa hoa nở, vẫn phải khóc cười một mình đơn độc, ai đi ai về, ai nhớ ai mong?

 

Cuộc lữ thứ mờ mờ nhân ảnh, đường thênh thang nhưng không có lối để vào, quá khứ tương lai, hiện tại bây giờ, vẫn đêm ngày réo gọi, vẫn mịt mùng trao đổi, vẫn đắn đo, do dự. Giọt nắng đầu sương, đóa hoa chợt mình nở nộ, chiếc áo trinh nguyên phủ trùm lên bóng thời gian, đọng lại trong tận cùng tâm thức, tô thắm cả một trời không, không còn cũ mới, mà là sự quán chiếu liên tục bền bỉ, đẩy bung cái cũ văng xa, tái tạo và hoán chuyển làm mới thế vào, lấp đầy khoảng trống đơn côi, lạnh lẽo, bằng sự nở hoa của an lạc, hạnh phúc miên trường. Thiền sư thi sỹ Huyền Không từng nói:

 

“Sáng nay thức dậy choàng thêm áo

Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh.”

Cõi lòng nhẹ tênh bừng sống dậy, bao nhiêu vương vấn mộng mị, bỗng vỗ cánh vụt bay. Ừ nhỉ! vẫn tinh khôi như ngày nào, mới toanh như thuở ban sơ, chưa một lần thay da đổi thịt, nhẹ nhàng và bất tận, khoác lên tâm thức chưa hề vơi, trao gởi đến nhân gian sự an bình thuần nhất. Kẻ lữ hành và cuộc lữ, không có chốn để đi, nẽo đểvề, từng bước nở hoa, xóa mờ mê lộ, một vì sao tô thắm khung trời hội tụ. Ở đó là cả một không gian rộng mở, tươi đẹp vô ngần, an tịnh phủ vây trong từng hơi thở. Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước, không hành trang mộng mị lôi kéo, không tâm thức đợi mong đón chờ, buông bỏ tự bao giờ, an nhiên sống giữa mưa buồn nắng quái, giữa bất hạnh thương đau, có không một nẻo thong dong đi về.

 

Trong sự biến động, ngút ngàn tái tê của kiếp nhân sinh, đâu là lằn ranh định mức, quay đầu là bờ, bên này lối kia, vượt thoát tử sinh? Khi nào, và lúc nào mới nhận ra được sự linh hiện phủ vây, không có khởi đầu và chung cuộc, tìm đâu giữa chốn phong ba dị biệt? Thực tại thường hằng là lúc ta tỉnh thức trên từng biến động, buông bỏ và xả ly tất cả mọi ý niệm, xóa nhòa mọi biên cương, phá vỡ mọi giai tầng, đạp đổ mọi thành trì ngăn cách. Sống và thở trong sự thể nhập vào tận cùng mọi hiện tượng, từ thân đến tâm, từ nội giới đến ngoại giới, trong sự phủ vây tròn đầy của giác ngộ, của vô sinh bất diệt, thường hằng của tự tánh. Một sự miên viễn của chân thường trong cõi vô thường, sự an tịnh tuyệt diệu trong dòng trôi nổi.

 

Chờ rồi đợi, nhớ rồi thương, buồn rồi vui, không còn là sự dẫn đưa của ý thức, tìm về chốn xưa phố cũ, lời ước hẹn ngày ra đi không trở lại. Lời nguyện cầu chưa trọn, cõi xa xăm chưa có dịp lại gần, cơn lốc của vô thường,vẫn âm thầm đứng đợi, chờ dịp lấn tới, không để cho ta còn dịp kêu gào mời gọi, xua đuổi khước từ, lắc đầu trốn chạy. Dù bằng lòng chấp nhận hay phản đối, cứ thế nó lầm lũi hiện hữu, ngang nhiên lấn bước. Chỉ có đối diện bằng tất cả hùng lực dũng cảm, thay đổi thói quen tật xấu, sống trọn trong sự hoan hỷ cùng tuyệt.

 

Thỉnh thoảng trong ta nhận biết sự mong manh của vô thường,nhưng làm sao có đủ năng lực vượt qua, hiên ngang tồn tại, quyết lòng tiến về phía trước, sống trong sự phủ vây của tâm lành an lạc? Ta trôi theo dòng thời gian,nổi chìm ẩn hiện, tâm tư đong đầy vô minh, khoắc khoải lụy phiền, nên mãi lang thang luân hồi đưa đẩy, chưa tìm ra cách sống, sự sống cho thật trọn vẹn với chính mình, hít thở năng lượng an lành, nỗ lực tìm phương vượt thoát. Lấy gì, có gì, tìm gì, được gì, để nuôi sống huệ mạng.

 

Xuân đã đi qua tự lúc nào, những mùa xuân ấy ta mải rong chơi miền hỗn độn, đếm thời gian qua ánh mắt tiếc thương, chiếc áo mới ngày xưa nay đã sờn vai đứt chỉ, đợi mong nay cũng đã nhạt nhòa, hãy lấy hoa cỏ nhân gian làm hành trang lên đường đổi mới cuộc lữ. Ý xuân, hương xuân, tình xuân, mãi đượm thắm cả nhân gian và lòng người, trong niềm hoan lạc không hề vơi. Ở đó, ở đây, bây giờ, mai sau, vẫn là một mùa xuân an lành miên viễn, trọn ý bặt ngôn, đạt tình thấu lý, bằng lòng đi chúng ta hãy cùng nhau sống với những mùa xuân bất diệt.

 

Nguồn: thuvienhoasen

 

XUÂN TU HỌC

 

Thích Hạnh Phú

 

Thời gian thấm thoát thoi đưa, đã gần bốn năm người viết xa thầy, xa huynh đệ để vào miền Nam tu học. Thế rồi, trong chuyến đi về miền Trung thăm thầy, thăm huynh đệ, tình cờ có vị Phật tử gặp người viết nói rằng: “Thưa thầy! Trong dịp Tết, con thấy các cơ quan đoàn thể thường treo băng rôn “Chúc Mừng Năm Mới”, còn ở các chùa thì treo “Mừng Xuân Di Lặc” hoặc “Mừng Xuân An Lạc”, con không hiểu lắm, xin thầy nói rõ cho con được biết. Nhân dịp xuân sắp về, người viết xin chia sẻ đôi nét về ý nghĩa câu “Mừng Xuân Di Lặc” hoặc “Mừng Xuân An Lạc”. Mong rằng bài viết này sẽ giúp ích phần nào thêm kiến thức cho quý Phật tử trên bước đường tu học Phật giải thoát.

 

 

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

 

Phật pháp tại thế gian

 

Bất ly thế gian giác

 

Ly thế mích Bồ-đề

 

Kháp tợ tầm thố giác.

 

Tạm dịch:

 

Phật pháp tại thế gian

 

Chẳng lìa thế gian giác

 

Lìa thế tìm bồ đề

 

Giống như tìm sừng thỏ.

 

 

 

Ở thế gian, mùng một Tết thường được xem là ngày định đoạt của suốt cả một năm. Trong ngày này, mọi người thường dè dặt từng lời nói, từng hành động, dè dặt từng tên người đến thăm mình, dè dặt rất nhiều việc, v.v…, vì nhiều người nghĩ rằng trong một năm sắp đến được thành công hay thất bại trong cuộc sống đều quyết định bởi mùng một Tết. Như vậy mùng một Tết là ngày đầy đủ ý nghĩa của tương lai mình. Chính vì thế, chư Tổ “tùy thuận chúng sanh”, lấy phương tiện làm chiếc thuyền từ để hướng dẫn chúng sanh từ bờ mê sang bến giác. Do đó, mùng một Tết được chọn là ngày vía đức Bồ Tát Di Lặc. Vì chúng ta thấy danh hiệu của Ngài là “Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật”, nên Phật tử chúng ta cũng tu học với mục đích chính là hi vọng tương lai mình thành Phật như Ngài.

 

Trong Phật giáo, có lẽ hình tượng Bồ-tát Di Lặc được nhiều người biết đến nhất. Mỗi khi bước chân đến chùa, hầu như chúng ta bắt gặp hình ảnh đầu tiên là tôn tượng của vị Bồ-tát Di Lặc được đặt trước khuôn viên chùa với hình dáng khá ấn tượng, dễ khắc sâu vào tâm trí người dù chỉ một lần nhìn thoáng qua. Thế nên, có câu ca tụng về nụ cười an nhiên tự tại và cái bụng lớn của Ngài:

 

“Bụng lớn năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ. Miệng cười thường xả, xả những việc khó xả ở thế gian”.

 

 

 

Có nhiều truyền thuyết nói về Ngài. Kinh Di Lặc Hạ Sanh ghi: Ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc Bà La Môn ở thôn Kiếp Ba Lợi thuộc xứ Nam Thiên Trúc (Ấn Độ cổ đại). Di Lặc trong tiếng Phạn là Maitryea, dịch nghĩa là Từ Thị, tức là người có tấm lòng từ bi. Tên chính của ngài là A-dật-đa (Ajita), chữ Hán dịch là Vô Năng Thắng (nghĩa là lòng từ của Ngài không ai vượt qua). Sở dĩ Bồ-tát Di Lặc có hiệu là Từ Thị bởi trong quá khứ, vì muốn giáo hóa chúng sinh nên lúc mới phát tâm tu hành, Ngài không ăn thịt, do nhân duyên ấy nên được gọi là Từ Thị. Chữ Từ là lòng từ, là chi đầu tiên trong Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả). Nhưng cũng có thuyết nói rằng Từ Thị là Ngài lấy theo họ của mẹ (giống như tôn giả Xá Lợi Phất cũng lấy theo họ mẹ). Ngài xuất gia dưới thời đức Thích Ca Mâu Ni và đức Phật thọ ký Ngài là vị Phật tương lai ở cõi Ta Bà. Hiện tại, Ngài là vị Đẳng giác Bồ-tát đang ở trên cõi trời Đâu Suất, chờ đợi đến khi pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật kết thúc (pháp vận Thích Ca Mâu Ni Phật gồm 12.000 năm, hiện tại là ngàn năm thứ ba còn lại chín ngàn năm nữa), hết chín ngàn năm tại thế gian này sẽ không còn nghe danh từ Tam Bảo. Sau đó trải qua khoảng năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm thì Bồ-tát Di Lặc sẽ xuống cõi Ta Bà này thành Phật, là vị Phật thứ năm trong Hiền Kiếp. HT. Tịnh Không nói: trên cõi trời Đâu Suất có tuổi thọ là 4000 tuổi mà một ngày trên cõi trời Đâu Suất bằng bốn trăm năm dưới trần gian, một năm cũng có 360 ngày (4000 x 400 x 360 = 676.000.000 năm). Cũng có thuyết nói rằng con người khởi đầu là 84.000 tuổi cứ một trăm năm thì giảm một tuổi, giảm dần cho đến khi nào còn mười tuổi (gọi là thời kiếp giảm, hiện tại chúng ta đang ở trong kiếp giảm). Lúc đó, thế giới có nhiều nạn đao binh. Đao binh ấy không do người người giết nhau, mà lá cây ngọn cỏ biến thành gươm giáo bén, chặt cắt người chết. Hết nạn đao binh đến nạn dịch bệnh. Con người chết gần hết chỉ còn những người tu hành ẩn trên núi. Lúc đó, họ mới thấy do con người làm quá nhiều điều ác nên bị quả báo chết như vậy. Nhờ thế họ bắt đầu tỉnh thức, giác ngộ, nỗ lực tu mười điều thiện. Từ đó tuổi thọ cứ một trăm năm tăng một tuổi, tăng đến 84.000 tuổi (gọi là thời kiếp tăng). Bấy giờ, con người thuần lương thì Bồ-tát Di Lặc ra đời tu hành thành Phật dưới cội cây Long Hoa. Đây là Bồ-tát Di Lặc ở xứ Ấn Độ.

 

Hiện nay ở các chùa, chúng ta thường thấy được thờ cúng là tượng Bồ-tát Di Lặc của Trung Quốc. Tương truyền vào thời Nam Tống tại huyện Phụng Hóa (tỉnh Triết Giang ngày nay) xuất hiện một vị hòa thượng mặc áo phạch ngực, bụng phệ, miệng cười tươi, vai quảy cái bị to đi vào nhân gian gặp cái gì cũng xin bỏ vô bị. Người ta không biết tên họ của Ngài là gì, từ đâu đến. Do đó, họ đặt tên cho Ngài là Bố Đại Hòa thượng. Một hôm, có Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi:

 

-         Thế nào là đại ý Phật pháp?

 

Bố Đại hòa thượng liền quăng cái túi vải xuống đất, không trả lời.

 

-         Hỏi: Thế có còn con đường tiến lên không?

 

Bố Đại hòa thượng liền quảy cái bị trên vai rồi đi. Không nói lời nào.

 

Sau đó, Ngài về chùa Nhạc Lâm ngồi trên tảng đá nói bài kệ, rồi tịch.

 

Di Lặc chơn Di Lặc

 

Phân thân thiên bá ức

 

Thời thời thị thời nhân

 

Thời nhân tự bất thức.

 

Tạm dịch:

 

Di Lặc thật Di Lặc

 

Phân thân trăm, ngàn, ức

 

Luôn luôn chỉ người đời

 

Người đời tự chẳng biết.

 

 

 

Vì thế, người đời sau mới biết Ngài là do Di Lặc Bồ-tát hóa thân và phỏng theo đó mà làm tượng để thờ Ngài.

 

Phật giáo là một nền giáo dục thực tiễn, thiết thực. Vì thế, Phật giáo thông qua các hình tượng, danh hiệu nhằm giáo dục con người đạt đến chân – thiện – mĩ, sự an lạc giải thoát ngay trong hiện tại. Ý nghĩa hình tượng Bồ-tát Di Lặc vẫn không nằm ngoài mục đích như thế.

 

“Bụng lớn năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ. Miệng cười thường xả, xả những việc khó xả ở thế gian”.

 

 

 

“Năng” là có thể, thuận theo. “Dung” là bao dung, chịu đựng. “Bụng lớn năng dung” nghĩa là cái bụng lớn có thể bao dung, chịu đựng, nhẫn nhục. Bao dung nhẫn nhục những gì mà người trong thiên hạ không nhẫn được. Đó là những thói hư tật xấu cũng như những điều hay lẽ phải của người thế gian. Bao dung những tham, sân, si, mạn cũng như những từ, bi, hỷ, xả. Trong cuộc sống đôi khi ta gặp phải những lời chửi mắng, gièm pha, phỉ báng, vu oan đến với mình, mình có nhẫn nại, bao dung, chịu đựng được hay không, xem như đó là những lời “nước đổ lá môn”. Người thế gian hay đem những điều đó để trong lòng, rồi sanh bực bội tức tối, từ đó đâm ra thù hận. Ngay như chính đức Phật, bậc giác ngộ viên mãn, Người hoàn toàn không có một điểm khuyết, như viên kim cương không bị trầy xước. Vậy mà lúc còn tại thế Ngài vẫn luôn bị bọn người ngoại đạo tìm đủ mọi thủ đoạn để hại Ngài, nhằm hạ thấp thanh danh của Ngài, huống hồ ta chỉ là một đệ tử nhỏ và là phàm phu nhiều tội nghiệp.

 

Nụ cười của Bồ-tát Di Lặc xưa nay được rất nhiều Chư Tôn Đức cũng như các bậc thiện hữu tri thức viết, miêu tả, tốn không biết bao nhiêu giấy mực, ngôn từ mĩ miều để khen ngợi, tán dương nụ cười ấy. Nụ cười biểu hiện sự an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Nụ cười với niềm vui lớn lao đó biểu hiện từ trong tâm hoan hỷ mà ra, vì vậy khi nhìn vào ai cũng cảm nhận được và làm cho mình cùng hoan hỷ theo. Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc. Có an lạc thì cuộc sống mới có ý nghĩa và thật đáng sống. Hỷ tức là vui theo việc làm tốt của người, đạo Phật thường gọi là tùy hỷ công đức. Xả tức là bỏ, bỏ tất cả những điều phiền muộn do người tạo ra cho ta. Nếu chúng ta không thể xả được những điều gây nên sự phiền não, phiền muộn thì ta sẽ đau khổ triền miên. Đức tính hỷ xả chính là yếu tố cơ bản giúp chúng ta thăng tiến trên con đường hoàn thiện nhân cách và đạo đức của mình. Hỷ xả là chất liệu quý báu để mọi người có thể đùm bọc, thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ nhau, cùng hóa giải những oán kết của sự đố kỵ, mang lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Nếu trên con đường tu tập, chúng ta không có tâm hỷ xả thì khó tháo gỡ những vướng mắc, cố chấp dẫn đến khổ đau sinh tử. Chỉ khi trong chúng ta luôn có sự hiện hữu của tâm hỷ xả, biết buông bỏ những cố chấp, hẹp hòi, vị kỷ, xóa bớt hận thù, oan trái thì lúc ấy chúng ta mới cảm nhận được niềm an lạc hạnh phúc thực sự. Người viết có đọc một quyển sách nói rằng: “Cái khó thực hiện nhất của con người là nụ cười. Vì thế, nét đẹp nhất của con người cũng chính là nụ cười. Có bao giờ bạn đứng trước tấm gương, bạn tự cười với chính mình chưa? Hoặc là khi đang bị phiền muộn mà bạn cười sao cho những thứ phiền muộn theo nụ cười của bạn đổ ra sông ra biển. Lúc đó bạn sẽ cảm thấy tâm hồn thật thoái mái, dễ chịu, an lạc. Đó chính là nụ cười thật sự của bạn”.

 

HT. Tịnh Không cũng thường giảng: Một trong những tập khí lớn nhất của mỗi người chúng ta là lòng ganh tị, thấy ai giỏi hơn mình thì luôn tìm cách nói xấu, chê bai, gièm pha đủ điều. Đó là điểm thất bại sẽ làm mất công đức của chính ta. Ví dụ: có một người đi làm việc từ thiện. Chúng ta không có khả năng làm việc từ thiện như họ nhưng nếu chúng ta biết “tùy hỷ công đức”, vui theo việc làm thiện của họ thì chúng ta cũng có công đức ngang bằng với công đức của chính họ. Thậm chí công đức của ta lớn, nhiều hơn công đức của chính người đi làm việc thiện. Vì người đi làm việc thiện sẽ được nhiều người khen tặng, nên đôi khi họ khởi lên sự ngã mạn, chấp vào việc làm thiện, chấp vào danh thơm tiếng tốt. Do đó họ sẽ giảm công đức. Còn ta do không có khả năng làm việc thiện nên không có người khen tặng, tán dương, vì vậy công đức của ta được giữ nguyên, không bị mất. Ngược lại, người đời không hiểu biết việc này nên thường đem lòng đố kỵ, gièm pha chê bai người làm việc thiện. Vì lòng đố kỵ nên công đức của ta bị mất.

 

Trong ba nghiệp thân – khẩu – ý thì khẩu nghiệp là quan trọng. Chính vì thế, trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật xếp nó lên đầu tiên “Khéo gìn khẩu nghiệp, không chê lỗi người. Khéo gìn thân nghiệp, không mất luật nghi. Khéo gìn ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm”.  Trong quyển sách Nhắc nhở tu hành của HT. Trí Tịnh, Ngài dạy: “...một lời nói nhưng làm người ta hoan hỷ, vui vẻ thì phước đức tăng thêm. Ngược lại, cũng một lời nói làm người buồn phiền, phiền não thì bị tổn phước đức...”.

 

HT. Tịnh Không nói: “Người tu Tịnh Độ chúng ta phải giống như Di Lặc Bồ-tát, bất luận ở đâu, bất luận gặp ai, đều chắp tay cười hì hì: “A DI ĐÀ PHẬT”. Người tu Tịnh Độ ấy chẳng cần phải phân biệt người khác nói năng lành hay chẳng lành, đều chẳng quan trọng. Họ nói lời lành, ta A DI ĐÀ PHẬT; họ nói lời chẳng lành, ta cũng A DI ĐÀ PHẬT. Hết thảy thị - phi, thiện - ác đến chỗ ta thảy đều hóa thành A DI ĐÀ PHẬT, đại từ đại bi!”. Đó là ý nghĩa của chữ “Hỷ”.

 

“Xả” nghĩa là buông xả, không giữ những phiền não trong lòng.  Người viết thường gặp nhiều người có lòng nhẫn nhục, nhưng không có tâm “xả”. Có một cô Phật tử kể cho người viết nghe câu chuyện như thế này: “Hôm qua, con bị người ta chửi con, dùng những từ thiếu văn hóa. Họ còn vu oan, phỉ báng cho con nữa, con tức lắm muốn chửi lại họ. Nhưng lại nghĩ mình mới đi tụng kinh ở chùa về nên con nhịn, chịu nhẫn nhục. Nhưng con tức lắm, tối đó con không thể nào ngủ được. Bây giờ con kể cho thầy nghe mà vẫn còn tức trong lòng”. Nghe cô Phật tử kể xong câu chuyện, người viết mới nói, “Mừng khen cho cô là lúc đó không tạo khẩu nghiệp, biết nhẫn nhục. Nhưng như thế vẫn chưa đúng, giỏi. Nếu cô xả được, không chấp vào những lời nói của người kia, không ghim vào lòng thì càng đáng khen hơn”.

 

Chính vì thế, có lẽ lời dạy quan trọng nhất từ hình tượng Di Lặc Bồ-tát là hạnh “buông xả”. Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi:

 

-         Thế nào là đại ý Phật pháp?

 

Ngài liền quăng cái túi vải xuống đất, không trả lời gì hết.

 

-         Hỏi: Thế có còn con đường tiến lên không?

 

Ngài liền quảy cái bị trên vai rồi đi. Không nói lời nào.

 

Hành động “quăng túi vải xuống đất” biểu thị hạnh “buông xả”. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy rằng: “chánh pháp còn bỏ, huống hồ phi pháp”. Chúng sanh trôi nổi trong sanh tử luân hồi triền miên, bởi do hai thứ “ngã chấp” và “pháp chấp”, chấp vào cái thân này là của ta, cái nhà này là của ta, con cháu là của ta. Người thế gian thường tham chấp vào tiền tài, sắc đẹp, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ, vì vậy tu hành nhiều kiếp vẫn không vượt qua ba cõi. Cổ đức thường nói: “Muôn thứ không đem theo được, chỉ có mỗi nghiệp theo thân”. Trong kinh Kim Cang, đức Phật cũng dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng, ko chân thật. Hết thảy pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt, bóng. Nên thường quán sát như vậy”. Tiền tài, địa vị, v.v… đều là những thứ không chân thật, có đó rồi mất đó. Thực vậy, chúng ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng, khi nhắm mắt xuôi tay chúng ta cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Sáu mươi, bảy mươi năm trên thế gian thức khuya dậy sớm, tìm đủ mọi cách để kiếm đồng tiền, bát gạo, chưa kể vì kế sinh nhai mà nghĩ ra nhiều thủ đoạn, phương cách lừa gạt để rồi tạo không biết bao nhiêu là nghiệp. Đến khi sống trong cảnh tam ác đạo mới nhận ra tội lỗi thì đã quá muộn màng.

 

Do đó, HT. Thanh Từ nói rằng đại ý của Phật pháp chỉ có một chữ “buông xả” là được. Ngài nói: “Quý vị buông xả được một phần thì được một phần tự tại, an lạc, giải thoát”. Bởi thế, Cổ đức dạy: “bỏ tất cả được tất cả”. Có một vị Phật tử đến hỏi HT. Tịnh Không rằng: “Mỗi ngày niệm Phật tại Niệm Phật Đường, thậm chí mỗi ngày niệm Phật suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Người như vậy có thể vãng sanh không?”

 

Hoà thượng trả lời: “Tôi không thể nói người đó không vãng sanh. Tôi cũng không thể nói người đó có thể vãng sanh.”

 

Nguyên nhân là gì? Vì vãng sanh cần phải có hai điều kiện.

 

Điều kiện thứ nhất là lòng tin phải chân thật, tâm nguyện phải thiết tha, đó gọi là “chân tín, thiết nguyện”.

 

Điều kiện thứ hai là: “Buông xuống vạn duyên”.

 

Đầy đủ hai điều kiện này chắc chắn được vãng sanh! Thiếu một trong hai điều kiện này chưa chắc vãng sanh được. Hòa thượng nói thêm: cái khó buông xả nhất của người thế gian là tình cảm vợ chồng, con cháu, thứ đến là tiền bạc.

 

Người viết xin kể một câu chuyện, lúc sống vì không thể buông xuống nên chết phải bị đọa lạc, cũng để phần nào chứng minh lời nói của Hòa thượng. Người viết có quen một chú Phật tử. Chú này làm Trưởng Ban Hộ Niệm, chuyên lo việc hộ niệm người trước lúc lâm chung. Chú kể: “Có lần con đi Hộ niệm cho một bà cụ. Khi bà vừa mất, con cháu lo tranh giành nhà, đất, tiền, vàng, v.v… làm cho bà cụ này tuy đã tắt thở nhưng máu từ trong miệng chảy ra”. Mọi người nhìn thấy cảnh tượng như thế ai cũng sợ.

 

Đây là một câu chuyện khác. Người viết có quen một cô Phật tử, sinh sống tại Bình Dương. Một hôm, người chị ruột từ Bình Phước về thăm cô và con gái út của mình. Tối đó, hai chị em ngồi nói chuyện, người em nói: “Chị à! Em thấy chị cũng lớn tuổi rồi cũng hay đau bệnh. Thôi chị lo tu hành niệm Phật kẻo không kịp bây giờ”. Nghe vậy, người chị liền nói: “Chị biết tu hành là tốt. Nhưng bây giờ chị còn một nỗi lo lắng, không yên lòng. Đó là đứa con gái út đang học đại học năm nhất. Khi nó ra trường. chị xin cho nó vô làm ở ngân hàng, rồi sau đó chị sẽ xin vô chùa quét lá đa”. Nhưng thật không ngờ năm giờ sáng hôm sau, chị này thức dậy đi vệ sinh và bị đột quỵ chết ở ngoài nhà tắm. Cả nhà không ai hay biết gì, đến khoảng bảy giờ sáng mới phát hiện. Tuy chị chết rồi nhưng thần hồn vẫn luôn hiện về báo những điều này, điều kia cho con gái út.

 

Bởi thế, cổ đức nói:

 

“Dép dưới giường, lên giường vội biệt,

 

Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?

 

Mạng người hô hấp kinh thay,

 

Nghĩ cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau”.

 

 

 

Bởi thế, trong Ấn Quang Văn Sao, đại sư Ấn Quang có một phương pháp vô cùng khéo léo, Ngài dạy chúng ta hãy thường nghĩ tới cái Chết. Ngài nói người thật sự tu đạo nên dán chữ Chết trên trán, từng giờ từng phút nghĩ mình sắp chết. Chúng ta sắp chết rồi, còn có chuyện gì chưa buông xuống được? Không buông xuống cũng phải buông xuống. Danh vọng, tiếng tăm, lợi dưỡng, tài sắc, lời khen, ăn uống, ngủ nghỉ, có cũng tốt mà không có cũng không sao, tâm chúng ta còn vướng bận nữa không? Thật sự phải buông xuống vạn duyên, một lòng nghĩ tới A Di Đà Phật, tôi gần chết rồi, tôi sẽ đi theo A Di Đà Phật.

 

Còn HT. Tịnh Không thì nói: “Đêm nay tôi ngủ trên giường sẽ vãng sanh, tôi còn việc gì mà chưa buông xuống được. Tu hành, đặc biệt là công phu niệm Phật, thành tựu được hay không then chốt ở chỗ chúng ta có thể buông xuống được hay không? Chỉ cần chúng ta chịu buông xuống, không có một ai chẳng thành tựu, phàm những người không thành tựu đều là người chẳng buông xuống nổi.”

 

Do đó, ngay từ bây giờ, Phật tử nhất định phải tập buông xuống hết những thị phi, nhân ngã, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần thì tu hành mới mong có phần giải thoát. Trong kinh, đức Phật thường dạy các hàng đệ tử: “Tiền tài, sắc đẹp, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ là năm gốc rễ của địa ngục”. Nếu phạm một trong năm thứ này thì đồng nghĩa với việc thành quả tu học cả đời chúng ta sẽ tan theo mây khói.

 

Ngày Tết cũng đã đến. Người thế gian thường vui theo cảnh vật của thế gian. Phật tử chúng ta về chùa thắp nhang lễ Phật vía đức Di Lặc Bồ-tát. Nhìn hình tượng của Ngài “với nụ cười hỷ xả, cái bụng lớn bao dung, nhẫn nhục”, chúng ta nguyện với lòng sẽ học tập theo công hạnh của Ngài để cuộc sống trong năm mới được hạnh phúc, an lạc, giải thoát.

 

Hiện nay, nhiều người thường nhầm lẫn giữa tượng Bồ-tát Di Lặc và tượng ông Địa. Theo HT. Tịnh Không: trên tay của tượng Bồ-tát Di Lặc chỉ cầm xâu chuỗi và cái túi vải (biểu thị lời khuyên mọi người tu hành niệm Phật và bố thí), ngoài ra không cầm bất cứ thứ gì. Còn ông Địa (vị cũng có cái bụng lớn, cũng nở nụ cười như Bồ tát Di Lặc) nhưng trên tay thì cầm thỏi vàng), đây là sự khác biệt giữa hai hình tượng. Cuối cùng, nhân dịp xuân về người viết xin tặng Phật tử bài thơ xem như một lời chúc.

 

 

 

 

 

Tượng Ông Địa tay cầm thỏi vàng

 

 

 

 

Tượng Bồ tát Di Lặc tay cầm xâu chuỗi

 

 

 

Quý Tỵ năm mới xin đón chào

 

Già, trẻ, gái, trai vui thế sự

 

Phật tử vui- học chốn cửa Thiền

 

Được, mất, hơn, thua có xá gì

 

Thị phi, nhân ngã cũng bằng không

 

Bận chi lời nói tan mây khói

 

Tham chi ngũ dục thứ mộng huyễn

 

Lụy phiền lục trần thân tâm khổ

 

Học hạnh Từ Thị chân an lạc

 

Giao thừa thiêng liêng giờ đã đến

 

Lễ Phật đón xuân tâm xả - nhẫn

 

Ta Bà lữ khách tinh tấn tu

 

Cực lạc quê nhà sen vàng nở

 

Sanh tử từ nay xin giã từ.

 

Hương đức hạnh

Tác giả : Hàn Long Ẩn

 

 

Hoa sen nở

bốn phương về hội tụ

Chúng trung tôn

oai đức mấy nghìn năm

Đời nghiêng ngửa

vẫn sắc son vì đạo

Bước chân đi

mang nguyện ước muôn trùng.

Tay ôm bát

mà ung dung đĩnh đạc

Áo nâu sồng

giới đức tỏa ngàn phương

Tâm vô trú

thân an nhiên tự tại

Gối trăng khuya

mặc sự thế vô thường!

Tình huynh đệ

Lục hòa thân cọng trú

Hiến đời mình

cho đạo pháp xương minh

Còn hơi thở

còn đi vào cõi mộng

Nguyện chung tình

với vạn loại sinh linh.

Bao lâu nữa

thế gian thành Tịnh độ

Vạn nẻo đường

đâu cũng thấy hoa khai

Tròn đại nguyện

bậc xuất trần thượng sĩ

Hội Liên trì

cùng đảnh lễ Như Lai.

 

 

 

Pháp Vân, mùa an cư 2012

Hàn Long Ẩn